Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Đức Phật A Di Đà là ai ?


Vô lượng quang biểu hiện ý nghĩa không gian vô tận, cùng khắp không gian. Vô lượng thọ biểu hiện thời gian vô cùng, thời gian không giới hạn. Các ý nghĩa này là muốn hiển thị Tâm linh bất nhị của Đạo Phật. Bất nhị cũng không phải là một, mà là không có số lượng.
Trong cuộc sống hàng ngày của dân gian, chúng ta rất quen thuộc với nhóm từ “Nam mô A Di Đà Phật” Vậy nhóm từ đó có ý nghĩa là gì ? Muốn hiểu tường tận ý nghĩa nhóm từ đó, chúng ta phải có một trình độ khá cao về khoa học.
Nam mô có nguồn gốc là từ Namah (tiếng Phạn) hoặc  Namo (tiếng Pali) có nghĩa quy y, kính lạy, quy phục, đem mình về với. Nam mô A Di Đà Phật (  阿 彌 陀 , chú ý chữ  phải đọc là mô chứ không phải vô) là Hán dịch từ tiếng Phạn Namah Amitabhàya buddhàya  có nghĩa là quy y Đức Phật A Di Đà.
A Di Đà (zh. 阿彌陀) là danh từ phiên âm có gốc từ hai chữ trong tiếng Phạnamitābha và amitāyusAmitābhaamitāyus có nghĩa là “vô lượng thọ” – “thọ mệnh vô lượng”. dịch nghĩa là “vô lượng quang” – “ánh sáng vô lượng”;
A Di Đà được thế gian hình tượng hóa thành vị Phật của thế giới Tây phương cực lạc, nơi chỉ có vui mà không có khổ.
 
 
Hình Đức Phật A Di Đà
 
Vô lượng quang biểu hiện ý nghĩa không gian vô tận, cùng khắp không gian. Vô lượng thọ biểu hiện thời gian vô cùng, thời gian không giới hạn. Các ý nghĩa này là muốn hiển thị Tâm linh bất nhị của Đạo Phật. Bất nhị cũng không phải là một, mà là không có số lượng. Cùng khắp không gian, cùng khắp thời gian và không có số lượng, đó mới là ý nghĩa thực sự của danh xưng A-Di Đà tức là vô lượng quang, vô lượng thọ. Cùng khắp không gian, cùng khắp thời gian, không có số lượng cũng có nghĩa là không có không gian, không có thời gian, không có số lượng, đó là vì Tâm như hư không vô sở hữu hay Phật tánh bất nhị, bất biến, bất sinh bất diệt, cũng có nghĩa là Niết Bàn (Nirvana).
 
Phật (Buddhàya) không phải là một vị thần linh, mà chỉ là một người giác ngộ, tự mình thân chứng bản tâm bất nhị là bản thể của vũ trụ vạn vật. Kinh điển Phật giáo nói rằng khi Đức Phật Thích Ca ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề, thì các thần thông, là những thuộc tính vốn có của tâm giác ngộ, hiện ra đầy đủ, nên:  Về mặt không gian Ngài nhìn thấy suốt cả Tam thiên đại thiên thế giới, còn gọi là Tam giới tức là Ba cõi thế giới, bao gồm Dục giới [欲 界 sa.(tiếng sanskrit) kāmaloka,  thế giới mà chúng ta đang sống]; Sắc giới [色界, sa. rūpaloka thế giới cõi trời nơi chúng sinh có thọ mạng lâu dài hơn cõi thế gian]  và Vô Sắc giới [無色界, sa. arūpaloka, thế giới nơi chúng sinh không còn thân thể vật chất mà chỉ còn tinh thần, ý thức]. Về mặt thời gian, Ngài nhìn thấy suốt cả quá khứ vị lai không có bắt đầu, không có kết thúc. Về mặt số lượng, Ngài nhìn thấy vô lượng vô biên thế giới, vật thể, chúng sinh, không phân biệt lớn nhỏ, từ vũ trụ bao la đến thế giới vi mô của những vật thể cực kỳ nhỏ bé mà ngày xưa không có danh từ diễn tả, nên tạm gọi là vi trần (hạt bụi nhỏ). Thật ra Ngài nhìn thấy cả thế giới hạ nguyên tử ( Sub Atomic) thấy cả những vật thể như hạt quark, electron, neutrino. Cái thấy đó vô cùng siêu việt, Ngài nhận ra cả những khoảnh khắc thời gian cực ngắn gọi là sát-na nhiều lần nhỏ hơn một giây đồng hồ (second). Đó gọi là chánh biến tri, biết cùng khắp không gian thời gian. Vì sao cái biết lại tuyệt đối như vậy ? Bởi vì Thích Ca chính là Tâm bất nhị, chính là Tam giới. Bộ Kinh Thành Duy Thức Luận (成唯識論 ) của ngài Huyền Trang dịch, đã tổng kết : “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” Tức là cái vũ trụ tưởng đâu là ở bên ngoài, độc lập khách quan, cũng chỉ là biến hiện của Tâm mà thôi. Cái tâm linh giác ngộ đó, mọi chúng sinh đều có  sẵn, và không hề thua kém chút nào so với Phật Thích Ca, bởi vì đều chung một Tâm bất nhị, nhưng vì mê muội chạy theo thế giới vật chất nhỏ bé tầm thường, chúng không “ngộ” được mà thôi, và vì không giác ngộ nên chúng trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi đầy đau khổ. Đức Phật thấu hiểu tính chất trống rỗng của nguyên tử vật chất, một điều mà phải đến cuối thế kỷ 20, nghĩa là 25 thế kỷ sau thời Đức Phật, những nhà bác học hàng đầu của nhân loại mới hiểu, khi họ khám phá ra hạt quark với đặc tính lạ lùng.
 
Một hạt quark đơn lẻ không tồn tại, phải 3 hạt quark hợp lại mới thành lập được hạt proton hoặc hạt neutron, đây là 2 thành phần của hạt nhân nguyên tử. Rồi các điện tử (electron) xoay quanh hạt nhân tạo thành nguyên tử vật chất, rồi các nguyên tử của 4 loại nguyên tố C, H, O, N  tạo thành các phân tử hữu cơ, từ đó hình thành sinh vật và con người. Nhưng quark và electron cũng như tất cả mọi hạt cơ bản khác (subatomic particles) cũng chỉ là hạt ảo. Do đó cái vũ trụ hình thành từ hạt ảo chỉ có trong tâm tưởng chứ không phải sự thật khách quan ở bên ngoài. Chính vì Đức Phật hiểu bản chất trống rỗng của nguyên tử, Ngài mới đưa ra thuyết triết học tánh không Śūnyatā (Emptiness) của vạn vật. Tại sao từ bản chất là không lại xuất hiện thế giới, vũ trụ, vạn vật ? Đó là do trùng trùng duyên khởi, sự kết hợp có điều kiện mà hạt nhân đầu tiên lại không thể khẳng định, chẳng hạn một hạt quark thì không tồn tại, nhưng 3 hạt quark hợp lại thì xuất hiện hạt proton hoặc hạt neutron, để rồi từ đó hình thành nguyên tử và vạn vật. Đức Phật tạm đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên” để giải thích sự hình thành của vật chất và sinh vật trong đó có con người. Ngày nay với việc phát minh ra máy vi tính, con người đã chứng minh một cách rõ ràng rằng những hiện tượng ảo trên màn hình vi tính như : hình ảnh, màu sắc, âm thanh, chữ viết v.v… chỉ là trùng trùng duyên khởi của điện tử (electron) quy về hai trạng thái của dòng điện, có dòng điện chạy qua (số 1), không có dòng điện chạy qua (số 0), từ đó hình thành kỹ thuật số theo hệ thống nhị phân, và phát triển thành công nghệ thông tin với vô số ứng dụng như hiện nay.
 
Trở lại với thế giới đời thường, Đức Phật thấy rằng tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa lâu đài, vạn vật, con người đều chỉ là nhân duyên (sự kết hợp có điều kiện) của cái không (trống rỗng không là gì cả, cái hư không vô sở hữu (không phải là sự thật tuyệt đối). Chỉ có cái bản tâm bất nhị, bất biến, bất sinh bất diệt, vô ngã (không phân biệt ta và người), vô lượng (không có số lượng), tuyệt đối ( vô phân biệt, không có các cặp phạm trù mâu thuẫn) mới đích thực là mình, tất cả chúng sinh đều có chung một tâm đó. Vì thế Ngài nói rằng : tất cả chúng sinh đều là Phật đã thành (chứ không phải sẽ thành) bởi vì cái bản tâm đó đã sẵn có (trước khi vũ trụ được thành lập) chỉ cần buông bỏ cái tâm nhỏ hẹp, mê muội, chấp trước (không phải là mình thật) để hòa nhập vào cái tâm vô lượng quang, vô lượng thọ (tức A Di Đà), cái đó còn gọi là Niết Bàn 涅槃, sa. nirvāṇa tức là bất sinh bất diệt hay là không còn sinh diệt (diệt tận 滅盡).
 
Những kiến giải của Đức Phật về thế giới đã được các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay thừa nhận. Kể sơ như sau :
 
Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập thì trừu tượng- tức không phải vật thật).
 
Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức người phát minh ra nguyên lý bất định _không thể đồng thời xác định vị trí và vận tốc hay động lượng của một hạt, ví dụ electron) nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật)
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism”  (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại)
Stephen Hawking (nhà toán học và vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này) và Neil Turok (sinh năm 1958 tại JohannesburgSouth Africa, Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện Perimeter về Vật Lý lý thuyết) nói : “The quantum world is one of virtual particles continually fluctuating in and out of existence, even in a vacuum, of superstrings vibrating and twisting in ten or eleven dimensions, most of which are ‘rolled up’ and invisible, of a reality in which gravitation, spacetime and matter are or were merged in one ‘instanton” (Thế giới lượng tử là thế giới của các hạt ảo không ngừng dao động qua lại giữa hiên hữu và cả hư không, của siêu dây rung động và biến dạng trong 10 hoặc 11 chiều kích_ phần lớn những chiều kích ấy bị cuốn lên và vô hình_của một thực tại trong đó lực hấp dẫn, thời không, và vật chất, được hoặc đã được kết hợp lại trong ‘hiện tiền’ ).
 
Thế giới lượng tử (quantum world) là thế giới nào ? Đó cũng chính là thế giới vật chất, sinh học và tâm lý mà chúng ta đang sống chứ chẳng phải thế giới nào khác. Vấn đề không gian, thời gian, số lượng là không có thật, cũng được hiện tượng rối lượng tử chứng minh một cách rõ ràng, cụ thể và chắc chắn.
Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) mới được khoa học chứng thực gần đây là thực nghiệm tiêu biểu xác nhận tính tương đối của không gian, thời gian và số lượng, tức là cả ba đại lượng trên đều không độc lập tồn tại. Hiện tượng rối lượng tử là hiện tượng các hạt cơ bản như photon, electron, proton, neutron, và kể cả nguyên tử, có thể xuất hiện đồng thời tại hai hoặc nhiều vị trí khác nhau, khiến người quan sát không thể xác định chúng là một hạt cùng lúc ở nhiều vị trí, hay là nhiều hạt giống hệt nhau ở tại các vị trí khác nhau. Nhưng điều quan trọng là nếu có sự biến đổi của một hạt ở vị trí này thì tất cả các vị trí khác đều biến đối y hệt, tức thời, bất kể khoảng cách bao xa. Nicolas Gisin, nhà vật lý của Đại học Geneve phát biểu : “điều thú vị ở đây là tự nhiên có thể tạo ra các sự kiện cùng xuất hiện ở nhiều địa điểm”
Năm 2002, nhà vật lý Australia gốc Trung Quốc Ping Koy Lam cùng cộng sự tại Đại học Quốc gia Australia ở Canberra (ANU) đã thực hiện thành công thí nghiệm chuyển thông tin theo nguyên lý hoàn toàn mới dựa trên “tương tác ma quỷ” (spooky action at a distance) tức hiện tượng rối lượng tử, của các quang tử (photon). Đúng vào lúc một chùm laser chứa những dữ liệu thông tin nhất định bị huỷ tại một vị trí trong phòng thí nghiệm, thì nhóm của Lam đã thấy xuất hiện một chùm laser khác giống hệt như thế tại một vị trí khác cách vị trí ban đầu 1 mét. Mặc dù chùm sáng không hề chuyển động từ điểm này đến điểm kia nhưng vì hai chùm sáng giống hệt nhau nên người quan sát có cảm tưởng rằng, chùm sáng đã được di chuyển tức thời, từ điểm này đến điểm kia.
Trong một thí nghiệm khác gần đây hơn, các nhà khoa học tại Geneve, Thụy Sĩ tạo ra những cặp photon hoặc các gói ánh sáng. Chúng được chia ra rồi truyền qua cáp quang được Swisscom cung cấp, đến hai trạm tại hai ngôi làng thuộc Thụy Sĩ cách nhau khoảng 11 dặm (18 kilômét). Các trạm khẳng định rằng từng cặp photon vẫn kết nối với nhau – bằng cách phân tích một photon, các nhà khoa học có thể dự đoán tính chất của photon kia. Hai photon đã tương tác với nhau một cách tức thời. Nếu cho rằng hai photon đã chuyển tín hiệu cho nhau thì tín hiệu đó phải di chuyển với tốc độ không tưởng, gấp hàng vạn, hàng triệu lần tốc độ ánh sáng.
 
Hiện tượng rối lượng tử xác định rõ ràng rằng không gian, thời gian và số lượng là không có thật, các đại lượng này chỉ phát sinh trong tâm thức của người quan sát khi có đủ điều kiện. Khoa học hiện đại hiểu rằng người quan sát có vai trò quan trọng trong việc hình thành các hiện tượng. Nhận thức này đối với giới khoa học là mới, nhưng đối với Phật giáo thì không mới vì đã được nói tới từ lâu trong kinh điển. Ngày nay chúng ta chẳng những giải ngộ được không gian, thời gian, số lượng là không có thật mà còn thực nghiệm được, nhờ vào thế giới ảo của điều khiển học (cybernetics) và internet. Chẳng hạn những dòng chữ này, bài viết này, có thể đến với các bạn ở bất cứ nơi nào trên thế giới, bất cứ lúc nào, không tùy thuộc vào vị trí mà bạn đang ngồi (nghĩa là khoảng cách không gian không có thật) miễn có đủ nhân duyên. Nhân duyên là bạn có một máy vi tính nối mạng hoặc một thiết bị cầm tay (laptop, netbook, smartphone, ipad hoặc máy tính bảng, có hỗ trợ wifi hoặc 3G). Bạn hoàn toàn có thể đọc bài viết, nghe audio, xem video. Tất cả vô ngại. Tuy nhiên, thực tế vẫn có thể trở ngại khi wifi hoặc 3G không đủ mạnh, hoặc thiết bị không hỗ trợ đầy đủ. Điều này cũng giống như chúng sinh bị vô minh, sở tri chướng che khuất, không diệu dụng được đầy đủ khả năng như Đức Phật, không phải vì khả năng kém hơn Đức Phật, chỉ vì bị quá nhiều che khuất.
 
Song bởi vì đa số chúng sinh không đủ lòng tin ở tự tâm của mình là Phật, là giác ngộ, vì đã nhiều đời nhiều kiếp sống trong mê lầm, giống như một kẻ bần cùng rách rưới, lê tấm thân nghèo khổ đi ăn mày, không biết, không tin rằng trong người mình có một viên ngọc như ý vô cùng quý giá, muốn gì được nấy, nên không thể đem ra dùng. Do đó Đức Phật mới bày ra tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng với từng loại căn cơ mê muội của chúng sinh, trong đó có pháp môn Niệm Phật còn gọi Tịnh Độ Tông (淨土宗 chữ 土 trường hợp này đọc là độ, không đọc là thổ) người tu cứ niệm Nam mô A Di Đà Phật để cầu vãng sinh về cõi giới Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà, cõi giới đó không còn sinh tử luân hồi, nên chúng sinh được an tâm tu hành cho đến giác ngộ. Thật ra đó chỉ là một thứ Hóa Thành Dụ (một tòa thành ảo giả lập để dẫn dắt người tu vào tạm trú vì đường đi quá xa) chứ không phải cứu cánh đích thực, bởi vì ngay danh xưng A Di Đà đã cho thấy chỗ đến là tâm giác ngộ cùng khắp không gian thời gian, A Di Đà không phải là ai xa lạ, chính là bản tâm của mỗi người.

Truyền Bình

Niệm Phật không phải là kêu Phật


Ấn Quang đại sư đưa Phổ Hiền hạnh nguyện vào pháp tu niệm Phật vì theo ngài, không tu hạnh Phổ Hiền thì không làm được công đức và sẽ không có điều kiện vãng sanh. Ngài chủ trương có ba điều kiện vãng sanh. Một là hành giả tin Đức Phật Di Đà qua lời dạy của Phật Thích Ca và tin có thế giới Tịnh độ của Đức Di Đà. Nếu không tin như vậy, không thể nào sanh về Tịnh độ, vì niềm tin sẽ dẫn hành giả đi đến nơi mình hết lòng tin tưởng. Điều thứ hai rất quan trọng là quyết tâm làm theo Phật dạy để vãng sanh Tịnh độ; đó là hạnh, tức việc làm của hành giả. Không thể thiếu hạnh, nhưng hạnh chủ yếu là niệm Phật. Tuy nhiên, đa số người lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật.
Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được. Niệm Phật mới vãng sanh được. Chữ niệm viết theo chữ Hán gồm chữ kim và chữ tâm, nghĩa là chúng ta đặt tâm vào hiện tại, nghĩ đến Phật Di Đà. Quan trọng của niệm Phật là nghĩ đến Phật Di Đà, nghĩ đến công hạnh và thế giới của Ngài. Nghĩ đến Phật Di Đà là nghĩ đến đấng giáo chủ ở cõi Cực lạc, nghĩ đến quá trình hành Bồ-tát đạo của Ngài, nghĩ đến thế giới của Ngài. Không nghĩ như vậy mà chỉ kêu tên Phật là sai lầm. Sở dĩ Ngài được làm giáo chủ thế giới Cực lạc là vì có quá trình hành Bồ-tát đạo. Theo tinh thần này, chúng ta kết hợp Bồ-tát đạo của kinh Pháp hoa và kinh Hoa nghiêm vào pháp tu Tịnh độ.
Chúng ta thấy quá trình hành Bồ-tát đạo của Ngài trong các bộ kinh Đại thừa, theo đó từ thuở quá khứ xa xưa, Ngài làm Chuyển luân thánh vương, tức vua không có thủ đoạn. Đức Di Đà làm vua không hứa hẹn hão huyền, Ngài nói ít nhưng làm nhiều, lóng nghe yêu cầu của người để đáp ứng lợi ích cho họ. Nghĩ đến Phật Di Đà, chúng ta phải học tấm gương của Ngài để sửa đổi mình. Niệm Phật Di Đà, tôi thấy Ngài như vậy mới thành Phật, thì mình cũng phải như vậy. Có suy nghĩ dẫn đến hành động là từ tín chuyển sang hạnh. Phật Di Đà lóng nghe sự phê phán của người về Ngài như thế nào theo đó mà sửa đổi, nên trở thành người thánh thiện là Thánh vương. Ngài không tranh cãi, không có ý niệm hơn thua, mê hoặc người, chỉ lo phục vụ cho người. Trước khi làm Phật, Ngài làm vua thấy trách nhiệm nhiều hơn quyền lợi, nên được gọi là vua Vô Tránh Niệm. Ngài tự hoàn thiện bản thân đến mức được mọi người quý kính thì Ngài đi tu. Người đời thi rớt, làm ăn thất bại, già yếu mới đi tu, tức xã hội không dung, họ mới tấp vào nương bóng Phật. Người tu như vua Vô Tránh Niệm hay vua Trần Nhân Tông coi sự nghiệp thế gian như không, thấy điều đáng quý của đạo mới đi tu. Mẫu người như vậy xuất gia nên được mọi người tin tưởng, kính trọng.
17.jpeg
Niệm Phật Di Đà, chúng ta phải nghĩ đến công hạnh của Ngài. Ngài không màng phú quý lợi danh, từ bỏ nó dễ dàng thì niệm hồng danh Ngài, chúng ta cũng tập từ bỏ giống như Ngài. Niệm Phật là phải niệm vậy. Qua quá trình tu hành, Ngài đổi danh hiệu là Pháp Tạng Tỳ-kheo, tức là kho pháp của  Phật. Trong trí của Di Đà lúc ấy là kho tàng trí tuệ Như Lai. Niệm Phật Di Đà là niệm ý này, không phải niệm Di Đà mà không hiểu nghĩa, không học theo hạnh Ngài.
Niệm Di Đà thấy rõ hiểu biết sáng ngời vô cùng của Ngài, thì tôi đọc tụng kinh điển không biết mệt mỏi, mong sao có được trí tuệ sáng suốt như Ngài. Chúng ta coi nhẹ quyền lợi vật chất thế gian, nhưng bỏ sự nghiệp vật chất, chúng ta phải được sự nghiệp tinh thần cao hơn. Đừng bỏ vật chất, kêu tên Phật mà không được gì là mê tín. Bỏ sự nghiệp vật chất để nuôi lớn tinh thần, vì vật chất chỉ tạm thời, sự nghiệp tinh thần mới vĩnh viễn, đạo đức và hiểu biết của chúng ta mới hằng hữu muôn đời. Từ bỏ cái giả tạm đổi được sự nghiệp cao quý thì sao lại không đổi. Niệm Phật Di Đà để từ bỏ vật chất, phát huy tinh thần. Phật Di Đà xưa cũng từ bỏ vương vị để được Vô thượng Bồ-đề. Chúng ta đừng nghe xúi dại, bỏ của cải vật chất rồi trắng tay.
Như vậy, niệm Phật rõ ràng khác với kêu tên Phật. Ta dồn công sức khi niệm Phật làm hai việc: Đọc tụng kinh điển không mệt mỏi, chán nản và gia công tu thiền quán như Bồ-tát Đại Thế Chí đạt được niệm Phật viên thông Tam muội, dùng trí tuệ quán chiếu biết được việc người thường không biết. Phật Di Đà biết tất cả, nhưng phải dùng sự hiểu biết để cứu đời mới trọn vẹn. Thể hiện tinh thần này, Ấn Quang đại sư mới kết hợp, đưa Phổ Hiền hạnh nguyện vào pháp tu Tịnh độ. Học để đó không lợi ích, nhưng sử dụng sự hiểu biết làm lợi ích xã hội, nên Phật Di Đà đổi tên thành Pháp Tạng Bồ-tát. Vì vậy, việc thứ ba chúng ta niệm Phật Di Đà thấy rõ là học để làm việc. Đây là giai đoạn thứ ba kết hợp mười đại hạnh Phổ Hiền với pháp tu Tịnh độ. Bắt gặp ý này, tôi nhận thức sâu sắc rằng mình chỉ cần hai việc là được học và được làm việc. Học và làm việc chính là giá trị thực tiễn của con người. Học nhiều thì làm được nhiều, học và làm luôn kết hợp với nhau. Quan Âm ngàn mắt ngàn tay là hình ảnh đặc biệt của đạo Phật Việt Nam thể hiện ý nghĩa biết để làm và làm theo hiểu biết. Làm có trí tuệ chỉ đạo mới tốt, làm không biết thì nguy hiểm.
Không học thì khó làm đúng, học mà không sử dụng được thì lãng phí. Phật Di Đà thành công do học và làm việc. Ngài bỏ ngôi vua đi tu để học được nhiều hơn và học xong, thành Phật, Ngài có điều kiện làm nhiều vô cùng, làm đến muôn đời. Làm vua giỏi lắm chỉ mấy đời được nhắc nhở, thờ phụng. Niệm Phật Di Đà, chúng ta niệm tinh ba này, nên sửa soạn xây dựng cho mình cuộc sống có ý nghĩa.  Xa hơn nữa, chúng ta niệm Phật Di Đà hình dung thế giới Cực lạc, nghĩ xem thế giới Cực lạc của Ngài phối trí ra sao. Khi hành Bồ-tát đạo, đi vân thủy, Pháp Tạng Bồ-tát thấy được cảnh trí xây dựng của tất cả thế giới Phật. Thực tế như chúng ta đi du lịch các nước Trung Hoa, Mỹ, Nhật, Âu châu, v.v… biết được văn minh của họ. Phật Di Đà tổng hợp tất cả văn minh của các thế giới Phật để xây dựng Cực lạc của Ngài thì nhất định thế giới Ngài phải tốt đẹp nhất. Vì thế, Phật Thích Ca nói rằng Cực lạc mới thành lập mười kiếp nên đẹp hơn các thế giới khác.
Ngày nay, chúng ta thấy điều lạ là thế giới Cực lạc có trồng cây, nhưng tại sao có bảy hàng cây. Từ bước ban đầu là An dưỡng quốc, Ngài mở rộng thành Cực lạc thế giới càng đẹp thêm mà không chướng ngại nhau. Kinh diễn tả có bảy hàng cây báu, bảy màng lưới giăng, ao sen bảy báu. Số bảy là con số biến. Ngày nay, chúng ta hiểu rõ rằng cây có tác động rất tốt cho cuộc sống con người. Cả thế giới loài người đều nghĩ đến phát triển cây xanh càng nhiều càng tốt, vì cây xanh là màng lọc cho bầu không khí của trái đất này được trong sạch. Đức Phật Di Đà đã biết trồng cây để tạo môi trường trong lành cho thế giới Cực lạc của Ngài từ lâu rồi. Và Cực lạc cũng có bảy màng lưới giăng để làm gì, chúng ta cũng chưa phát hiện được. Ngài gắn vô đó vô số hạt châu để tỏa ánh sáng và kết hợp ánh sáng với âm thanh để tác động cho người nghe phát tâm niệm Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta thấy ánh sáng và âm thanh đóng vai trò quan trọng trong các thế giới văn minh hiện đại.
Ấn Quang đại sư dạy rằng niệm Phật là niệm tỉnh giác, tức đem tâm cột vô niệm hiện tiền. Chúng ta nghĩ đủ thứ là mê tình hay thức biến, nên phạm sai lầm, dẫn đến khổ đau, sa đọa. Niệm pháp là niệm chánh. Chúng ta phải nhìn chính xác mọi việc diễn biến trên cuộc đời, luôn cân nhắc xem chúng ta có nói đúng, nghĩ đúng và làm đúng hay chưa. Lời nói, suy nghĩ và việc làm đúng thì được người thương quý, sai thì chuốc họa. Niệm Phật phải luôn tỉnh giác, cân nhắc xem chúng ta có đúng hay không, không phải chỉ đọc tên Phật; nếu chưa đúng thì điều chỉnh lại cho đến chính xác hoàn toàn là thành Phật. Tăng là thanh tịnh, nên ví tâm người tu như nước trong. Niệm Tăng, chúng ta quán sát xem tâm mình thanh tịnh, yên lặng, trong sạch hay chưa. Cố giữ tâm, không cho sóng tình gợn lên. Và khi tâm đứng yên, trong suốt thì mặt trời Phật rọi vô, huệ chúng ta phát sanh. Người lúc nào cũng tỉnh giác, làm đúng và tâm không khởi động là tu Tịnh độ để vãng sanh, để thành Phật.
Đức Phật Di Đà thiết đặt Cực lạc từ âm thanh, ánh sáng tạo nên huyền vũ cho người vào đây luôn tự điều chỉnh họ. Ngài không thuyết pháp, nhưng người tự thanh tịnh theo cảnh trí của Ngài xếp đặt, nên gọi là Tịnh độ. Thấy cảnh giới Di Đà như vậy, niệm cảnh giới Di Đà như vậy, thì thực tế từ tín đã bước sang hạnh. 
HT.Thích Trí Quảng